Bồ Tát Hộ Minh, Tiền Thân Đức Phật 

     Sau nhiều kiếp tu hạnh Bồ Tát, Ngài sinh lên cung trời Đâu Suất làm chủ nội viện, danh hiệu là Bồ tát Hộ Minh. Quán sát thấy Quốc Vương Tịnh Phạn và Hoàng Hậu Ma Da ở cõi Diêm Phù Đế có nhân duyên nhiều kiếp làm cha mẹ nên Ngài Quyết định Giáng Trần.

 


Mộng Thấy Điềm Lành Thánh Mẫu Thọ Thai

     Bấy giờ, Hoàng Hậu Ma Da vợ Vua Tịnh Phạn nước Ca Tỳ La Vệ nằm mộng thấy voi trắng sáu ngà từ trên không trung ngậm đóa sen trắng, đi xuống vòng quanh Bà ba vòng rồi từ hông bên phải mà vào, từ hôm đó bà thọ thánh thai một bậc Như Lai Đại Giác.

 


Bảy Đóa Sen Vàng Nâng Gót Ngọc Ba Ngàn Thế Giới Đón Như Lai

     Đức Phật giáng sanh từ bên hông phải của mẹ trong vườn Lâm Tỳ Ni với bảy đóa hoa sen đỡ bước, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất mà rằng: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” (trên trời dưới đất, chỉ có trí huệ siêu phàm của bậc Giác Ngộ mới là tôn quý). Khi ấy là lúc rạng sáng ngày mùng 8 tháng Tư năm 623 trước công nguyên. 

 


Thiết Lễ Đặt Tên Thánh Nhân Xuống Trần

    Đức Phật giáng sanh ở cõi đời này với thân tướng cao quý của bậc Chuyển luân thánh vương cùng cốt cách phi phàm báo hiệu bậc thánh nhân xuất thế. Vua cha rất yêu quý Thái tử, làm lễ đặt tên là Tất Đạt Đa, họ là Thích Ca.

 


Tiên A Tư Đà, Xem Tướng Thánh Nhân

     Vua Tịnh Phạn thỉnh tiên nhân về hoàng cung xem tướng cho Thái tử. Xem xong, tiên bật khóc mà thốt rằng: Với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của Thánh Nhân, Thái tử sau này sẽ thành bậc Giác Ngộ vĩ đại! Chỉ đáng thương cho tôi đã già không còn được nghe lời pháp giải thoát của Ngài. 

Thiền Quán Suy Tư, Chiêm Nghiệm Lời Lẽ

     Năm lên bảy tuổi, một hôm theo cha dự lễ cày ruộng. Nhìn thấy cảnh xâu xé lẫn nhau của mọi loài, Thái tử sanh lòng thương xót. Ngài ngồi dưới bóng mát của tàn cây chiêm nghiệm về lẽ sống ở đời, với trạng thái suy tư mà vào thiền quán.

 


Văn Võ Song Toàn, Thông Minh Xuất Chúng

     Tuy chỉ mới 16 tuổi nhưng Thái tử đã tinh thông tất cả văn chương và võ học đương thời. Mặc dù văn võ song toàn, là người tương lai kế vị ngai vàng, ngài vẫn không hề có chút gì tỏ ra ngạo mạn, huênh hoang mà luôn nhân từ nhã nhặn. 

 


Vâng Lệnh Vua Cha, Thành Cha Lập Thất

     Năm 17 tuổi, Thái tử sánh duyên cùng công chúa Da Du Đà La xinh đẹp và hạ sanh được một con trai đặt tên là La Hầu La. Tuy sống trong cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh, nhưng lòng Thái tử vẫn luôn phảng phất đôi điều suy ngẫm về lẽ vô thường của hạnh phúc. 

 


Thần Dân Yêu Quý, Nhân Dân Kính Trọng

     Với lòng yêu người thương vật. luôn tươi cười và bình đẳng với tất cả các tầng lớp trong xã hội, nên Thái tử và Công Chúa được nhân dân vô cùng kính mến, nồng nhiệt đón chào, triều thần nể vị tôn vinh: thiệt là một Đấng Minh Quân thời thịnh trị .

 


Nhìn Thấu Sự Thật, Cuộc Sống Vô Thường

     Một hôm, sau yến tiệc do vua cha thiết đãi nhắm muốn dùng cảnh hoan lạc vui tươi để giữ chân người ở cung son kế vị ngai vàng, Thái tử bất chợt nhìn thấy cảnh say sưa lăn lóc của mọi người sau khi vui vẻ, khiến Ngài nhận ra bản chất thực của cuộc sống. Từ đó, dòng suy tư ngày càng trĩu nặng trên gương mặt trẻ của vị Thái tử đương triều

 


Dạo Bước Bốn Cửa Thành, Quyết Chí Xuất Gia

     Sau khi dạo bốn cửa thành, chứng kiến cảnh sanh, già, bệnh, chết của chúng sanh, cùng dáng dấp trang nghiêm thoát tục và ý nghĩa của sự tu tập để giải thoát buộc ràng của vị Sa Môn. Thái tử thấm thía hơn nữa nỗi khổ đau của kiếp nhân sanh và ngài quyết chí xin phép vua cha xuất gia tìm đường giải thoát.

Giã Từ Cung Cấm, Tạm Biệt Người Thương

     Tuy không được sự đồng thuận của Phụ Vương với chí nguyện xuất gia tìm đạo, nhưng bởi nhân duyên tu tập nhiều đời thôi thúc. Thế rồi, vào một hôm nọ khi màn buông trùm khắp kinh thành, mọi người đang chìm vào giấc mộng. Thái tử lặng lẽ từ biệt vợ và con, bỏ lại sau lưng đền đài lầu các, nhẹ nhàng rời khỏi cung vàng, thực hiện chí nguyện xuất gia tìm đạo.

 


Vượt Khỏi Cung Vàng Xuất Gia Tìm Đạo

     Giữa khuya mùng tám tháng hai, cảnh vật lặng yên, đầy trời sao sáng. Với ánh sao khuya dẫn lối, trăng non đưa đường, Thái tử cùng người hầu Xa Nặc cưỡi ngựa Kiền Trắc, vượt dòng A Nô Ma, quyết trí xuất gia tầm đạo, cứu độ chúng sanh thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, đoạn diệt phiền não đau khổ, sanh tử luân hồi.

 


Cắt Tóc Đổi Áo, Chọn Nẻo Tu Hành

     Dòng A Ma Nô là dấu ấn lịch sử khi Thái tử Tất Đạt Đa quyết tâm tìm cầu chơn lý. Bên bờ sông, khi ánh trăng vàng còn in trên mặt nước khuya, Ngài tự tay cắt mái tóc xanh, cởi hoàng bào gửi Xa Nặc đem về hoàng cung dâng lên vua cha tạ tội. Từ đây, Ngài bắt đầu dấn thân trên con đường tu hành, tầm cầu giải thoát để tìm ra lẽ đạo nhiệm màu.

 


Núi Tuyết Cần Tư, Sáu Năm Khổ Hạnh

    Sáu năm khổ hạnh nơi rừng già, biết bao chướng ngại với nhiều pháp môn. Mỗi ngày, Ngài chỉ ăn một hạt mè, một hạt gạo cho đến khi kiệt sức. Một hôm nghe tiếng đàn giữa không trung, Ngài chợt hiểu rằng tu theo lối khổ hạnh ép xác thì không thể tìm ra con đường giải thoát, chỉ tu theo trung đạo là con đường duy nhất vô cùng thực tiễn, hợp lý và hữu ích để dẫn đến sự giải thoát hoàn toàn. 

 


Mục Nữ Cúng Dàng, Cháo Sữa Vững Thân

     Sau khi ngộ ra lý trung đạo, rời bỏ lối tu hành khổ hạnh ép xác sai lầm. Ngài rời khỏi chỗ ngồi, đến dòng Ni Liên tắm gội sạch sẽ. Sau đó, Ngài đến ngồi tu tập dưới cội Bồ Đề và nhận bát cháo sữa từ nàng chăn cừu Tu Xa Đề cúng dường.

 


Phát Nguyện Cao Cả, Thệ Thành Phật Đạo

      Sau khi dùng cong bát cháo sữa, sức Ngài dần bình phục, tâm hồn sảng khoái, khí lực được phục hồi. Ngài đứng dậy đi đến bờ sông Ni Liên thả chiếc bát xuống dòng nước và nói: “Nếu ta được chứng thành Phật quả thì chiếc bát này phải nổi trên mặt nước và trôi ngược dòng sông”. Để minh chứng cho lời thề nguyện của Ngài, chiếc bát từ từ trôi ngược dòng nước chảy. 

 


Dưới Cây Nhập Định, Cảm Động Long Thần

      Từ dòng sông Ni Liên, Ngài trở lại cây Tất Bát La, dùng cỏ Cát Tường lót làm tòa ngồi. Ngài ngồi tư thế kiết già mà phát đại nguyện rằng: “Dù cho thịt nát xương tan, nếu không tìm ra chánh đạo, ta quyết không rời khỏi cội cây này”. Thệ nguyện rung chuyển đất trời, cảm đến Long Thần hiện thân che mưa chắn gió khi ngài nhập định tầm tu.

 


Ma Dùng Nữ Sắc, Quấy Rối Thánh Nhân

      Sự tinh tấn tu hành của Thái tử làm chấn động cảnh giơi Ma Vương Ba Tuần, vì thế Ma Vương sai ba cô con gái đến dùng sắc đẹp quyến rũ, thân hình mê hoặc, để Ngài lung lay ý chí, từ bỏ sự tu hành; nhưng Thái tử vẫn vững chí tư duy, ngồi yên bất động. 

 


Địa Thần Cảm Động, Bảo Hộ Người Tu

     Ma Vương nhìn thấy Thái tử không bị sắc đẹp cám dỗ, Ma nữ dao động nên vô cùng tức giận, bèn điều khiển thế giới ma quân đến bao quanh dọa nạt, nhất quyết không để cho ngài chứng đạo. Lúc này có vị Kiên Lao Địa Thần từ đất hiện thân, cảm phục ý chí kiên định tầm tu của Thái tử, Địa Thần vuốt mái tóc dài, nước từ mái tóc cuồn cuộn chảy thành dòng làm ngập trôi tất cả ma quân.

 


Hàng Phục Ma Quân, Vững Thân Tu Tập

     Suốt bốn mươi chín ngày đêm ngồi yên tu tập, quán chiếu nội tâm. Trải qua biết bao hiểm nguy bởi nạn Quỷ dữ, Ma vương, những cám dỗ của ý thức, những ma chướng tự thân. Tất cả đều hòng làm ngài lung lạc ý chí, phế bỏ đường tu. Nhưng tất cả đều bị khuất phục bởi sức mạnh phi thường của bậc vĩ nhân xuất thế.

 


Thấy Ánh Sao Mai, Thành Ngôi Chánh Giác.

     Mặc cho những chướng ma quấy phá, Ngài vẫn điềm nhiên ngồi vững dưới cội Bồ Đề, trên đỉnh đầu một vừng hào quang bắt đầu rạng rỡ. Màn đêm buông xuống, đất trời trở lại yên tịnh và trong suốt như gương, Ngài nhìn thấy rõ tất cả bản thể của vũ trụ, mọi nguồn gốc của sự khổ đau. Cuối đêm, khi ánh sao mai ló dạng, Ngài đã thấu suốt được “Tam Minh”, chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Hôm ấy là ngày mùng tám tháng mười hai.

 


Phạm Thiên Dâng Hoa, Thỉnh Phật Thuyết Pháp

     Sau khi chứng quả, Đức Phật quán sát căn tánh chúng sanh nơi cõi nhân gian căn lành ít, bướng bỉnh khó giáo hóa, thấy khổ nhưng không muốn thoát khổ, chưa đủ lòng tin để tiếp nhận giáo pháp. Khi ấy, Trời Đại Phạm thấu hiểu ý Phật, nên dâng hoa cúng dường, ân cần cầu thỉnh Đức Phật thuyết pháp hóa độ chúng sanh. Cảm lòng thành khẩn của Vua Trời Đại Phạm, Đức Phật từ bi hứa khả.

 


Vườn Nai Thuyết Pháp, Tam Bảo Hình Thành

     Sau khi nhận lời thỉnh cầu cảu Vua Trời, Ngài rời khỏi cội Bồ Đề, đến vườn Lộc Uyển xứ Ba La Nại. Đầu tiên, Đức Phật chuyển pháp luân khai thị bốn chân lý nhiệm màu: Khổ, Tập, Diệt, Đạo cho năm anh em Kiều Trần Như, Ác Bệ, Thập Lực Ca Diếp, Ma Ha Nam và Bạc Đề. Kể từ đây, ngôi tam bảo thường trụ thế gian đã hình thành, bắt đầu sự nghiệp giáo hóa chúng sanh.

 


Du Hành Mọi Nẻo, Giáo Hóa Chúng Sanh

     Từ khi ngôi tam bảo được hình thành, ánh sáng tỉnh thức từ lời dạy của Bậc Đại Giác đã được ngôi Tăng Bảo truyền bá, dần lan tỏa xuống khắp mọi nơi trên quả đất này. Ngài luôn hướng dẫn đệ tử tu tập pháp môn trung đạo sống cuộc đời đơn giản, du hành khắp nơi, tùy cơ giáo hóa tất cả chúng sanh có duyên giải thoát với đạo từ bi. 

 


Trở Về Cố Hương, Hóa Độ Người Thân

     Nơi Tỳ Ca La Vệ, Vua Tịnh Phạn luôn tưởng nhớ đến người con thân yêu đã vì sự nghiệp giải thoát chúng sanh mà quyết vứt lại sau lưng tất cả. Hay tin Thái tử đã tìm ra đạo giải thoát, chứng thành quả Phật, đang đi giáo hóa khắp nơi, Vua liền phái sứ giả đến nơi chỗ Phật, thỉnh Ngài về cung để thần dân trăm họ được mong ân giáo hóa. Vì muốn báo đáp hiếu ân, thăm lại Vua Cha nên Đức Phật dẫn chư Tăng cùng đến kinh thành Ca Tỳ La Vệ. 

 


Gặp Lại Người Xưa, Nói Pháp Xuất Thế

     Gặp Đức Phật, Vua Tịnh Phạn rất đỗi vui mừng lắng lòng cung kính nghe lời thuyết pháp. Công chúa Da Du Đà La và con trai là La Hầu La cũng được nghe lời Như Lai khai thị về hạnh thoát khỏi phiền não, xuất gia giải thoát. Trong thời gian bảy ngày ở lại kinh thành Ca Tỳ La Vệ. Đức Phật thuyết pháp giáo hóa cho những người từ hoàng thân quốc thích đến hàng thứ dân, đối với ai, Ngài cũng dùng tâm bình đẳng không phân biệt mà tiếp độ, hướng dẫn cho họ theo con đường giác ngộ giải thoát.

 


La Hầu La Xin Phật Xuất Gia, Xá Lợi Phất Là Thầy Thế Độ

    Được nghe Như Lai khai thị về hạnh xuất gia cao cả, La Hầu La xin với mẹ cùng ông là Vua Tịnh Phạn cho được theo Phật xuất gia. Đức Phật dạy La Hầu La lễ tôn giả Xá Lợi Phất làm thầy thế độ để xuất gia tu học. Đây là vị Sa Di đầu tiên trong giáo đoàn của Phật.

 


Vua Cha Qua Đời, Phật Hành Hiếu Đạo

     Nghe Vua Cha bệnh nặng, khó qua khỏi định luật tử sanh, Đức Phật liền vội trở về thăm. Nhìn thấy thần sắc tiều tụy của Nhà Vua, nắm tay người, Đức Phật thuyết giảng giáo pháp, nhờ đó mà Vua Cha được chứng quả Vô Sanh, thoát khỏi não phiền đau khổ. Sau khi Vua Cha băng hà, Đức Phật đã làm trọn hiếu đạo tự mình khiêng quan tài để làm gương cho người đời.

 


Lên Cõi Trời Thuyết Pháp, Báo Ân Hiếu Mẫu Thân

    Mùa hạ năm đó, nhận lời thỉnh cầu của Chư Thiên và cũng là để báo đáp ân đức sanh thành của mẫu hậu Ma Da mà thần thức người hiện đang ngự tại cung trời. Đức Phật đã dùng thần thông lên cung trời Đao Lợi nói kinh Địa Tạng, thuyết pháp cho Chư Thiên, nhờ đó mà cõi trời rất nhiều Chư Thiên hiểu rõ lý đạo, tập hạnh giải thoát.  

 


Trở Lại Nhân Gian, Tiếp Đường Giáo Hóa

     Sau khi Phật thuyết pháp tại cung trời xong, Đức Phật trở lại nhân gian bằng đường cầu thang từ cõi trời đi xuống, Chư Thiên cung kính bao quanh. Nhân gian mọi người vui mừng khôn xiết. Sau khi Vua Cha qua đời, dì mẫu của Đức Phật và công chúa Da Du Đà La cũng xin được xuất gia, trở thành những Tỳ kheo Ni đầu tiên trong giáo đoàn Phật Giáo.   

 


Độ Hóa Nan Đà, Xa Lìa Sắc Dục

    Có vị Vương tử tên Nan Đà, tham luyến sắc đẹp, yêu quý giàu sang, không thuận theo Phật xuất gia. Vì muốn độ hóa, Đức Phật đem ông lên cõi Trời để thấy dung mạo đẹp tuyệt trần của các Tiên nữ; dẫn ông xuống địa ngục để nhìn thấy cảnh khổ nóng bức của người tham đắm sắc dục, mê muội danh lợi. Từ đó Vương tử hiểu rõ giá trị sự thật của con người, sắc đẹp giàu sang cũng chỉ là trò đời hư ảo, nên giác ngộ phát tâm xuất gia, tìm cầu giải thoát thực sự. 

 


Lần Cuối Thọ Nhận, Cúng Dường Nhân Gian, Hiện Thân Già Bệnh, Báo Trước Vô Thường

     Vào một hôm, trên đường giáo hóa, Đức Phật thọ nhận buổi cúng dường của người thợ rèn Thuần Đà. Sau khi thọ trai xong, Phật bảo với Đại Chúng:

      “Đây là bữa thọ trai cuối cùng của Như Lai trên thế gian này”. Khoảng khắc sau, Phật hiện tướng bệnh tật để nhắc nhở hàng đệ tử không nên quên lý  vô thường trong cuộc sống, dù là Bậc Đại Giác cũng không thoát khỏi khi còn thọ báo thân cõi trần. Và đó cũng chính là điềm báo trước cho nhân thiên: Phật sắp nhập niết bàn.

 


Duyên Giáo Hóa Độ Sanh Viên Mãn, Như Lai vào Tịch Diệt Niết Bàn

    Hơn 49 năm độ sanh thuyết pháp, từ vườn Lộc Uyển cho đến Thành Câu Thy Na. Trước lúc vào Tịch Diệt Niết Bàn, Đức Phật khai thị cho chúng đệ tử lần cuối cùng: “Phải nương theo giới luật làm thầy”. “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Sau những lời di nôn dặn dò đại chúng đường hướng tu hành, Như Lai nằm nghiêng bên phải, an tường vào Đại Định Niết Bàn. Khi ấy trái đất rung động, người trời đều thương khóc, vì biết rằng chỗ nương tựa duy nhất từ nay không còn nữa. 

 


” Đản Sanh Ca Tỳ La

Thành Đạo Ma Kiệt Đà

Thuyết Pháp Ba La Nại

Nhập diệt Câu Thy Na”

     Tuy hóa thân của Đức Phật đã rời bỏ thế gian nhập Đại Niết Bàn, nhưng Pháp Thân của ngài vẫn tồn tại mãi mãi, tồn tại trong đoàn thể Tăng già, tồn tại trong Pháp Bảo, tồn tại trong hư không giới, chỉ cần có một chúng sanh dù là loài sâu bọ nhỏ nhít cầu Ngài giúp đỡ, chỉ cần nhân duyên đầy đủ, sự gia trì của Đức Phật vẫn không khác khi lúc Ngài còn tại thế.

Tác Giả: Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam

Dịch Giả: Thích Trúc Thông Tánh