Mười Pháp Quán Tưởng

Hướng Dẫn Hành Thiền

Các Hướng Dẫn Hành Thiền Cho Ngài Girimananda

     Tiếp theo đây, tôi (Bhikkhu Anālayo) sẽ trình bày một phương cách mà qua đó, các hướng dẫn ghi trong kinh Girimānanda và phiên bản Tây Tạng tương ứng có thể được áp dụng thực hành. Mục đích của tôi ở đây chỉ là để góp ý, giúp tạo hứng khởi để thực hành, mà không phải để ngầm hiểu đây là phương cách đúng nhất để thực hiện điều đó. Hành giả được tự do điều chỉnh để thích hợp với hoàn cảnh riêng của mình và những gì tôi trình bày ở đây chỉ đơn thuần là một ví dụ.

     Tóm tắt, Đức Phật bảo ngài Ānanda đến gặp ngài Girimānanda đang lâm trọng bệnh và nói lại mười pháp quán tưởng như sau:

(1) Tưởng vô thường trong năm uẩn;
(2) Tưởng vô ngã trong sáu căn và sáu trần;
(3) Tưởng bất mỹ (bất tịnh) về các bộ phận của cơ thể;
(4) Tưởng nguy hại về khả năng cơ thể có thể bị bệnh;
(5) Tưởng từ bỏ các tâm bất thiện;
(6) Tưởng ly tham để hướng về Niết-bàn;
(7) Tưởng đoạn diệt để hướng về Niết-bàn;
(8) Tưởng nhàm chán đối với toàn thế giới để hướng về Niết-bàn;
(9) Tưởng vô thường trong tất cả các hành để hướng về Niết-bàn;
(10) Niệm hơi thở trong mười sáu bước.
 

     Sau khi nghe mười tưởng này, bệnh của Tôn giả Girimānanda được thuyên giảm ngay lập tức. Bốn pháp quán tưởng đầu tiên trong kinh Girimānanda tương ứng với bốn tưởng điên đảo (vipallāsa): trong vô thường, nghĩ là thường– quán tưởng (1); trong vô ngã, nghĩ là ngã – quán tưởng (2); trong bất tịnh (không hấp dẫn), nghĩ là tịnh (hấp dẫn)– quán tưởng (3); trong khổ, nghĩ là lạc – quán tưởng (4). Quán tưởng về từ bỏ (5) liên quan đến từ bỏ dục tâm (5a), sân tâm (5b), hại tâm (5c) và các ác, bất thiện tâm khác (5d); tạo thành một bộ bốn tiếp theo. Quán tưởng về ly tham (6), về đoạn diệt (7), về nhàm chán đối với toàn thế giới (8) và về vô thường trong tất cả các hành (9) tạo thành một bộ bốn khác. Cuối cùng, pháp quán niệm hơi thở (10) được thực hiện trong mười sáu bước, chia thành bốn nhóm bộ bốn tương ứng với bốn pháp lập niệm (thân, thọ, tâm, pháp).

      Nhịp điệu bộ bốn trong toàn thể tiến trình mười pháp quán tưởng là như sau:
   
Vô thường (1), vô ngã (2), bất mỹ (3), nguy hại (4);
    • Từ bỏ dục tâm (5a), sân tâm (5b), hại tâm (5c), bất thiện tâm (5d);
    • Ly tham (6), đoạn diệt (7), nhàm chán đối với toàn thế giới (8), vô thường trong tất cả các hành (9);
    • Niệm hơi thở: bộ bốn thứ nhất (10a), bộ bốn thứ hai (10b), bộ bốn thứ ba (10c), bộ bốn thứ tư (10d).

     Bốn pháp lập niệm giúp tăng thêm giá trị của các hướng dẫn hành thiền trong bài kinh Girimānanda. Khảo sát đối chiếu bài kinh Lập niệm trong tạng Pāli (MN 10) và bài kinh tương ứng trong bộ A-hàm Hán tạng cho thấy các chủ đề chính của bốn pháp ấy là: quán về bản chất thật sự của cơ thể là bất mỹ, vô ngã và bản chất tử vong (A), quán về bản chất của các cảm thọ (B); quán về bản chất của tâm (C); và quán về các pháp trong phương cách trau dồi những điều kiện dẫn đến giác ngộ (D).

     Trong bài kinh, các chủ đề tương ứng đó được thực hành trước khi bắt đầu một chuỗi các bước niệm hơi thở. Thật thế, quán tưởng về bất mỹ hay bất tịnh (3) tương ứng với một trong các pháp quán thân được ghi trong tất cả các phiên bản của kinh Lập niệm hay Niệm xứ (Satipaṭṭhānasutta, MN 10).

     Quán tưởng về nguy hại hay trở ngại (4) trong kinh Girimānanda và phiên bản Tây Tạng tương đương bắt đầu bằng một câu tóm tắt rằng thân thể có nhiều đau đớn. Đây là một trong ba loại cảm thọ, chủ đề của pháp lập niệm thứ hai (quán thọ). Quán tưởng về từ bỏ (5) rõ ràng có liên quan đến tâm, dựa trên sự phân biệt cơ bản giữa thiện và bất thiện và điều này liên quan đến những trạng thái tâm đầu tiên ghi trong kinh Lập niệm của mọi phiên bản để quán tâm. Các pháp quán tưởng kế tiếp (từ 6 đến 9) hướng tâm đến mục tiêu cuối cùng và do đó là chủ đề để bồi đắp các chi phần giác ngộ vốn là tâm điểm của quán pháp trong các bài kinh Lập niệm.

     Tóm lại:
      • Tưởng bất tịnh (3) – quán thân;
      • Tưởng nguy hại (4) – quán thọ;
      • Tưởng từ bỏ (5) – quán tâm;
      • Tưởng (6) đến (9) – quán các pháp.

      Từ góc nhìn này, niệm hơi thở trong bài kinh Girimānanda diễn ra trong cùng địa bàn hành thiền của bảy quán tưởng trước (3 đến 9), khởi đầu trên nền tảng tuệ quán thành lập bởi hai quán tưởng đầu tiên (1 và 2). Vì thế, niệm hơi thở (10) tóm tắt và làm viên mãn những gì đã được thực hiện trước đó, đồng thời kết hợp các chủ đề khác nhau này thành một chủ thể duy nhất, dựa trên sự tỉnh giác ghi nhận tiến trình thay đổi của hơi thở.

    Bối cảnh câu chuyện của bài kinh Girimānanda cũng giúp hành giả thực tập các hướng dẫn dành riêng cho ngài Girimānanda. Dựa trên giả thuyết hợp lý rằng các lời tụng của ngài Ānanda có chức năng như là một buổi thiền có hướng dẫn, có lẽ khi chăm chú lắng nghe, ngài Girimānanda thực hành mười quán tưởng đồng thời với việc trì tụng của ngài Ānanda. Điều này giúp ta ước đoán thời gian cần thiết để hoàn tất một chương trình gồm mười quán tưởng.

     Cách trì tụng như thế thông thường sẽ mất khoảng từ hai mươi đến ba mươi phút để trì tụng toàn thể bài kinh. Cho phép được ngừng một khoảng thời gian ngắn sau khi tụng mỗi quán tưởng để lời dạy của Đức Phật thấm sâu vào tâm và như thế, có lẽ tổng số thời thời gian trì tụng bài kinh là không hơn một giờ đồng hồ hay có thể ngắn hơn. Kinh Girimānanda và phiên bản Tây Tạng tương đương đã ghi rõ ràng trong bất cứ cách nào ngài Girimānanda theo dõi bài kinh, kết quả là bài kinh đó giúp ngài khỏi bệnh. Dựa vào đó, có vẻ hợp lý khi cho rằng thực hành mười pháp quán tưởng này trong khoảng thời gian từ bốn mươi lăm đến sáu mươi phút của một buổi thiền là phù hợp với những gì kinh văn dường như chỉ ra cho thấy như thế.

      Dĩ nhiên để thuần thục với từng pháp quán tưởng này cần phải mất nhiều thời gian hơn. Trong lúc ban đầu, tôi đề nghị hành giả chỉ thực hành một pháp quán tưởng trong mỗi buổi thiền. Về sau, khi đã thuần thục, có thể kết hợp lại thành một tiến trình các quán tưởng nối tiếp nhau trong một buổi thiền. Trong Kinh tạng không có nhiều thông tin về ngài Girimānanda, không biết rõ là ngài đã quen thuộc với các pháp quán tưởng này hay không. Có lẽ ngài đã có nhiều kinh nghiệm thực hành riêng rẽ và điều mới mẻ ở đây đối với ngài là cách kết hợp các pháp quán tưởng ấy thành một chuỗi các bước liên tục nối tiếp nhau trong khi hành thiền.

    Dù thế nào đi nữa, một khi đã quen thuộc mười pháp quán tưởng này, hành giả có thể hoàn thành toàn bộ chương trình hành thiền trong một buổi thiền. Ưu điểm về việc có nhiều đề mục thiền như thế trong một khoảng thời gian tương đối hạn chế là để giúp giữ kín tâm trí, không để tạo cơ hội để tâm phóng đi nơi khác. Ngay cả nếu có phóng tâm, sự kiện này dễ dàng và nhanh chóng được ghi nhận. Bằng cách này, hành giả thực hành sống động và tránh được cảnh đơn điệu phải thực hành một cách máy móc. Dựa vào việc xây dựng sự liên tục trong hành thiền mà phương cách này đã tạo ra, trong thời gian còn lại của buổi thiền, hành giả có thể chuyển sang cách hành thiền tự do, ít gò bó hơn, chẳng hạn như chỉ đơn thuần ghi nhận dòng chảy thay đổi của các chứng nghiệm trong thời khắc hiện tại. Sau các quan sát sơ bộ này, giờ đây chúng ta sẵn sàng chuyển sang sự thực hành các pháp quán tưởng đó.


Các chữ viết tắt:

AN Aṅguttara Nikāya (Tăng chi bộ)
DN

MN
Dīgha Nikāya (Trường bộ)
Madhyama Āgama (Trung A-hàm)
Majjhima Nikāya (Trung bộ)
SN Saṃyutta Nikāya (Tương ưng bộ)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tags: